Triệu chứng: Đây là một bệnh sinh lý có triệu trứng rễ bị thối đen, chót lá vàng dần rồi cả lá có màu nâu đỏ, khô đỏ, cứng khô, đẻ ít, cây cằn cọc, sinh trưởng bị đình trệ nếu không có biện pháp can thiệp kịp thời lúa sẽ bị chết lụi thành từng chòm lớn. Triệu chứng trên thường xuất hiện sau khi cấy 2-3 tuần.
Nguyên nhân: Có nhiều nguyên nhân tuy nhiên về cơ bản mọi nguyên nhân đều dẫn đến tình trạng thiếu Oxi trong đất nên bộ rễ không thể hô hấp qua đó cây không thể thực hiện các phản ứng hóa sinh, không tạo được năng lượng để hút nước và dinh dưỡng do đó cây dần bị suy kiệt và lụi dần theo thời gian. Có thể liệt kê ra các nhóm nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: Do đất bị thoái hóa về tính chất (lý tính, hóa tính và sinh tính), cấu tượng không phù hợp, đất sét cao, thịt nặng, gây trở ngại cho việc trao đổi khí trong đất.
Thứ hai: Do đất quá trũng sâu, úng ngập liên tục kéo dài, nước ứ đọng lâu ngày không thoát ra được, gây ra tình trạng yếm khí nặng nề, thiếu oxi nghiêm trọng đồng thời tích tụ nhiều khí độc như H2S, SO2 trong đất.
Thứ ba: Ruộng bón nhiều phân hữu cơ chưa hoai mục, nhiều tàn dư thực vật không được xử lý, phân rạ, phân xanh, đất chứa nhiều hữu cơ…trong điều kiện nhiệt độ cao, hè oi nóng các hợp chất hữu cơ bị phân giải nhanh làm tiêu hao một lượng lớn oxi trong đất sinh ra nhiều khí độc trong điều kiện yếm khí ngập nước làm cho tình trạng thiếu oxi càng trở nên trầm trọng, các khí độc không thoát ra được.
Các nhóm nguyên nhân trên tác động trực tiếp làm rễ lúa bị ngẹt, gây trở ngại cho quá trình hô hấp của rễ lúa làm cho rễ lúa bị thối đen, không sinh ra được rễ mới và các lá lúa bị khô đỏ. Đồng thời trong đất sinh ra các khí độc như H2S, CO2 trực tiếp gây độc cho rễ làm cho rễ bị thối nhũn có màu đen, triệu chứng này càng thể hiện rõ trên chân đất ngập nước thiếu sắt hòa tan(Fe2+). Mặt khác khí đất thiếu oxi làm cho các chất hữu cơ phân giải không hoàn toàn sinh ra nhiều acid hữu cơ trong điều kiện ngập nước các acid hữu cơ càng tích tụ lại làm tăng độ chua của đất ảnh hưởng nghiêm trọng đến hô hấp và sinh trưởng của rễ. Do đó rễ mới không thể phát sinh rễ cũ bị thối đen làm cho cây lúa không lấy được dinh dưỡng(kali, đạm) và nước gây ra tình trạng các lá già phía gốc vàng trước sau đó các lá phía trên cũng vàng theo dần dần cây lụi và chết.
Cách phòng:
Bệnh nghẹt rễ lúa là bệnh sinh lý, không có nguồn bệnh truyền lan nhưng tùy điều kiện từng vùng đất, tùy sức sinh trưởng và chống chịu từng giống lúa mà diễn biến bệnh sớm hay muộn, nặng hay nhẹ. Tuy nhiên nghẹt rễ lúa đều ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng phát triển của cây lúa.
Biện pháp phòng cơ bản là cải tạo lý hóa tính của đất, cải tạo ruộng chua, trũng, yếm khí, quản lý và đẩy mạnh các khâu kỹ thuật trong thâm canh nhằm hạn chế những yếu tố gây nghẹt rễ lúa. Các biện pháp kỹ thuật được áp dụng là:
Chủ động tháo cạn nước từ đầu, phơi ruộng làm cỏ sục bùn.
Những chân ruộng trũng sâu, chua cần cải tạo dần chất đất, cày bừa kỹ, phơi ải, bón vôi cải tạo độ chua, phun chế phẩm sinh học Vườn Sinh Thái mục đích thúc đẩy các chất hữu cơ phân giải nhanh ngay từ đầu, hạn chế trùng thời điểm cây lúa phát triển bộ rễ.
Những chân ruộng dễ bị nghẹt rễ chỉ bón phân chuồng hoai mục, phân hữu cơ vi sinh, bón cân đối các yếu tố dinh dưỡng
Trong thời gian cây sinh trưởng ban đầu cần thay đổi nước kịp thời, làm cỏ sục bùn sâu và sớm. Khi chớm phát bệnh cần tháo nước kịp thời nếu ruộng trũng không tháo nước được cần làm cỏ sục bùn nhiều lần bón them ít vôi, lân và tro bếp. Các biện pháp trên có tác dụng thúc đẩy lưu thông không khí, tăng them oxi vào đất, cải thiện tốt môi trường sống của rễ lúa, tạo thuận lợi cho rễ mới phát sinh phát triển để cây nhanh chóng phục hồi trở lại.
Ngoài ra bà con nên sử dụng các chế phẩm Nano bạc đồng, nano oxyclorua đồng để phòng trị chủ động các nhóm bệnh do vi khuẩn, nấm gây hại bộ rễ, thân, lá...
Hy vọng với những biện pháp kỹ thuật trên sẽ giúp bà con nông dân phòng và hạn chế tối đa bệnh nghẹt rễ sinh lý trên cây lúa.