1.1 Đặc điểm thực vật học cây mắc ca
Cây mắc ca được các nhà thực vật học phát hiện đầu tiên vào năm 1857 tại rừng cây bụi ở Queensland(Úc) và đặc tên chi là Maccadamia. Mắc ca được trồng đầu tiên tại Úc vào năm 1858 bởi W.Hill. Tại Việt Nam cây mắc ca được đưa vào trồng thử nghiệm từ những năm 1994 tại các vùng như Ba Vì, Đắk Lắk, Sơn La, Phú Thọ. Hiện nay Bộ Nông Nghiệp và PTNT đã quy hoạch 2 vùng trồng tại nước ta đó là Tây Nguyên và một phần Tây Bắc.
Mắc ca thuộc bộ Proteales, họ proteacaea, chi Macadamia. Mắc ca có nhiều chi, tuy nhiên chỉ có 2 chi có ý nghĩa kinh tế và được trồng phổ biến (chi Macadamia tetraphylla và Macadamia tegrifolia).
Đặc điểm sinh học bộ rễ: Mắc ca mang đặc điểm chung của họ Protaceae là rễ cọc kém phát triển. Về cơ bản Mắc ca có kiểu rễ cụm, các rễ cụm này là các khối rễ con ở bên và hệ lông tơ tạo thành một bề mặt hấp thụ tỏa tròn có tâm là gốc cây. Kiểu rễ này làm cho chúng dễ bị tổn thương bởi nấm phytophthora cinnamomi (gây thối rễ, vàng lá) và ít có sự cộng sinh với nấm, vi sinh vật có ích. Bộ rễ mắc ca có khả năng sinh trưởng và phân bố ở tầng đất 60-70cm, trong đó 70% tập trung tầng đất mặt (từ 5-35cm). Mắc ca có bộ rễ cọc kém phát triển, tán nặng, rễ nông nên chúng chịu gió bão kém, cây dễ bật gốc, cành tuy cứng nhưng giòn nên có thể bị tước cành, đặc biệt là vị trí phân tán cành cấp 1. Do đó kỹ thuật chăm sóc, bón phân cho mắc ca cần phải bón đúng kỹ thuật, lượng phân bón dựa vào tuổi cây, nhu cầu dinh dưỡng của cây (tránh ngộ độc phân bón). Bón thừa, thiếu hoặc mất cân đối sẽ làm cây còi cọc chậm phát triển, cây dễ bị nhiễm bệnh, hiệu suất sử dụng phân bón không cao. Ngoài ra trong quá trình chăm sóc nên định kỳ xử lý đất, xới xáo phá váng trước khi bón phân, làm sạch cỏ dại, hạn chế cạnh tranh dinh dưỡng (do mắc ca có bộ rễ ăn nông thường bị cạnh tranh dinh dưỡng bởi thảm thực vật mặt).
Đặc điểm sinh học thân lá: Thân Mắc ca thẳng đứng, phân cành nhiều. Cành tròn đều có nhiều mụn lồi (Bì khổng), vỏ nhám không xẻ cành, vết cắt trên vỏ có màu đỏ tối, gỗ cứng giòn. Trên thân cành có 3 hoặc 4 lá mọc cách theo đường xoáy ốc. Lá cứng, mép lá lượn sóng, mặt lá thường uốn lượn, lá nguyên mép hoặc có răng cưa, đôi khi răng cưa nhọn cứng như gai, gân lá nổi rất dễ thấy. Hầu hết các giống mắc ca thường chịu hạn tốt, bộ lá có cấu trúc 2 mặt khác nhau, lỗ khí khổng và thủy khổng phân bố không đồng đều ở cả 2 mặt, lá có lớp cutin bảo vệ khá dày, sức căng bề mặt lớn do đó các dạng phân bón lá dạng Chelate thông thường khi phun qua lá sẽ không đạt hiệu quả hấp thu tối ưu. Vì vậy để đạt hiệu quả hấp thu qua lá cao, nên sử dụng các dòng chế phẩm dinh dưỡng cho cây ở dạng nano dễ hấp thu. Các hạt nano có kích thước siêu nhỏ bé, có thể bám trên các kẽ lá, hấp thu nhanh qua khí khổng và thủy khổng, hiệu suất hấp thu dinh dưỡng cao hơn, tốc độ hấp thu cũng lớn hơn so với các dạng phân bón lá được sản xuất theo công nghệ truyền thống.
Mầm sinh dưỡng phân hóa từ các nách lá, cây khỏe có thể phân hóa đồng thời 3 mầm sinh dưỡng
Đặc điểm sinh học của hoa mắc ca: Hoa tự đuôi sóc mọc ra tại các nách lá trên cành 1,5 đến 2 tuổi, có khi cành 3 tuổi vẫn trổ hoa, tập trung chủ yếu ở đầu cuối đoạn cành. Hoa thường mọc thành chùm dạng chuỗi, mỗi hoa dài 12-20cm (tùy giống và điều kiện chăm sóc, điều kiện khí hậu thổ nhưỡng), hoa mắc ca lưỡng tính, cánh hoa thoái hoá, mỗi bông có 4 cánh hoa do 4 cánh đài hoa mọc dài ra mà thành, trước khi nở chúng dính liền nhau thành búp dài tròn. Bầu hoa thượng vị chứa 2 phôi châu nhưng thường chỉ 1 phôi phát dục và sau này tạo thành hạt tròn. Nếu cả 2 phôi đều thụ tinh tốt quả sẽ chứa 2 hạt hình bán cầu chất lượng thương phẩm sẽ kém. Nhuỵ cái rất dài, trước khi hoa nở vòi nhị cái dài ra rất nhanh, uốn cong và lách ra khỏi búp cánh rồi vươn thẳng, 4 nhuỵ đực đính trên 4 cánh giả và chỉ bật ra được khi hoa đã nở, nhị đực uốn cong xuống phía dưới cách xa đầu nhuỵ cái. Quá trình nở hoa, tung phấn ở mỗi dòng mắc ca là khác nhau do đó khi trồng nên phối hợp nhiều dòng để các cây có thể thụ phấn chéo, nâng cao tệ đậu quả đồng thời làm đa dạng quần thể.
Mầm hoa đang trong giai đoạn phân hóa
Đặc điểm sinh học quả mắc ca: quả có kích thước khoảng 1,7-2.7cm, nặng 8-9,5g, vỏ quả dày 2-3mm. Quả thường mọc thành chùm 3-16 quả trên cuống hoa tự. Vỏ quả gồm 2 lớp gồm lớp vỏ ngoài láng bóng tạo nên bởi những tế bào dạng sợi và lớp áo trong tạo nên bởi tế bào nhu mô, khi lớp áo này chuyển màu từ trắng sang nâu rồi đen là dấu hiệu cho thấy quả đã chín. Trong sản xuất người ta thường dựa vào đặc điểm này để đánh giá độ chín của quả. Hạt mắc ca rất cứng, gồm lớp vỏ dày 2-3mm, nhân tạo nên bởi 2 tử diệp hình bán cầu chứa đầy phôi nhũ và phôi hình cầu rất nhỏ gắn giữa 2 tử diệp và nằm sát lỗ nẩy mầm. Tuy rất nhỏ nhưng phôi thành thục vẫn có đủ trục phôi, mầm thân và mầm rễ. Trên vỏ hạt có thể thấy rốn hạt, lỗ nẩy mầm và đường gân chạy liền giữa rốn và lỗ nẩy mầm, khi nẩy mầm vỏ hạt sẽ nứt theo đường gân này. Vỏ hạt gồm 2 lớp, lớp ngoài dày gấp 15 lần lớp áo trong và tạo ra bởi những tế bào có lớp vỏ cenllulose rất dày và tế bào thạch. Khi già cả 2 loại tế bào này đều hoá gỗ làm cho vỏ hạt rất cứng. Trong khi đó lớp áo trong rất mỏng, phần sát rốn hơi có màu nâu, phần sát lỗ nảy mầm màu trắng sữa.
1.2 Yêu cầu điều kiện sinh thái của cây mắc ca
+ Mắc ca là nhóm cây ưa khí hậu mát mẻ, nhiệt độ và độ ẩm không khí cao sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển của cây, ảnh hưởng đến khả năng phân hóa mầm hoa và tỷ lệ đậu quả, chất lượng hạt.
+ Lượng mưa trung bình năm 1500-2700mm. Thời kỳ hoa rộ, đậu quả non nếu gặp mưa, sương muối, độ ẩm không khí cao thường gây rụng hoa và quả non.
+ Mắc ca có dạng rễ chùm với hệ rễ tơ, rễ hút ăn nông, tập trung tầng đất mặt 5-35cm do đó mắc ca không thích hợp trồng ở những nơi có đất trũng thấp, ngập úng thường xuyên, đất yếm khí, kém thoát nước, nghèo hữu cơ (cây mắc ca thường bị thối rễ, nghẹt rễ).
+ Mắc ca có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, tuy nhiên để mắc ca phát triển thuận lợi nên chọn đất tơi xốp, giàu hữu cơ, pH đất 5,6-6,8, tầng đất hữu hiệu dày 70-80 trở lên cm, đất thoát nước tốt.
+ Độ cao so với mặt nước biển 500-1500m (tối ưu 800-1200m).
+ EC đất từ 0,6-1,3, tuy nhiên với macca EC tối ưu nhất là 0,7-0,8.
+ Độ dốc không quá 15-20o. Đối với đất dốc nên trồng theo đường đồng mức. Cây mắc ca là cây ưa sáng, không trồng dưới tán cây khác, không nên trồng xen mắc ca với các nhóm cây có tán rộng, độ che phủ lớn.
+ Ảnh hưởng của nhiệt độ đến sinh trưởng phát triển cây mắc ca:
Trên lý thuyết mắc ca có thể chịu lạnh tới âm 4-6oC, chịu nóng tới 36-40oC. Tuy nhiên chỉ nên trồng mắc ca ở những vùng có dải nhiệt độ từ 12-33oC kết hợp vùng có địa hình cao, mát mẻ. Nhiệt độ tối thích để cây macca phát triển thuận lợi là 20-25oC, dưới 10-12oC hoặc trên 36-38oC cây ngừng sinh trưởng, ức chế quang hợp, bộ rễ vào trạng thái ngủ nghỉ. Thực tế cho thấy, ở một số giống, khi nhiệt độ trên 37-38oC hầu hết các lá non và lá bánh tẻ bị mất màu xanh tự nhiên, do không tổng hợp được diệp lục hoặc diệp lục bị phá hủy (chlorophyll a). Phân hóa mầm hoa của mắc ca phụ thuộc vào tổng tích ôn(nhiệt độ). Nhiệt độ ban đêm để cây mắc ca phân hóa mầm hoa thuận lợi 17-21oC (tối ưu 17-18oC). Nhiệt độ thích hợp để mắc ca đậu quả 19-23oC, nhiệt độ quá cao hoặc quá thấp, kèm theo mưa ẩm kéo dài khiến cho hạt phấn bị chết, không thụ phấn thụ tinh được. Theo nghiên cứu, thống kê tại các vùng trồng mắc ca Việt Nam, khi nhiệt độ ban đêm trên 24-25oC hầu như các giống mắc ca rất khó phân hóa mầm hoa. Nhìn chung ở nhiệt độ 17-19oC, kết hợp với sự chênh lệch nhiệt độ ngày đêm từ 8-11oC sẽ thúc đẩy quá trình phân hóa mầm hoa. Do đó ở những vùng có khí hậu nóng ẩm, người ta thường chọn vùng núi cao từ 700m đến 1700m để trồng mắc ca. Nếu chăm sóc tốt, điều kiện khí hậu thuận lợi, mắc ca 3-4 năm tuổi đã có thể cho bói quả. Tại Tuần Giáo, Điện Biên những cây 2,5-3 năm tuổi đã cho phân hóa mầm hoa trên những cành già nhỏ. Mắc ca bắt đầu cho năng suất, chất lượng hạt tốt từ năm thứ 6-8 trở đi, sản lượng quả tăng trưởng dần từ năm thứ 5-6 trở đi, thời kỳ kinh doanh của mắc ca có thể kéo dài 50-65 năm.
Tại các tỉnh Tây Bắc mắc ca thường bắt đầu phân hóa mầm hoa từ tháng 11-12 đến tháng 1 năm sau (khi gặp điều kiện khí hậu khô lạnh, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm 7-10oC). Tại các tỉnh Tây nguyên, mắc ca phân hóa mầm hoa từ 2-3 đợt/năm. Những nơi có địa hình thấp trũng, khí hậu nóng, có gió Lào thổi mạnh hoặc điều kiện mưa ẩm liên tục kéo dài vào đúng thời điểm cây hoa rộ, đậu quả non thì không nên trồng mắc ca.
Khuyến cáo các giống mắc ca có thể trồng tại Việt Nam: 246, QN; 816; 741; 849; 842; A16; A38; OC, 900, 800, 695, 508, H2, 294, 344, 788, Daddow. Tại các tỉnh Tây Bắc các giống cho hiệu quả kinh tế và tỷ lệ thu hồi nhân cao: 246, QN; 816; 741; 849; 842; A16; A38. Tính đến 10/2020 tổng diện tích trồng mắc ca tại Việt Nam vào khoảng 16-17 nghìn ha. Dự kiến trong 6-8 năm tới diện tích mắc ca có thể lên tới 25-27 nghìn ha. Sản lượng trung bình hiện tại vào khoảng 3-3,2 tấn hạt tươi/ha. Tính đến 08/2020, sản lượng hạt tươi tại nước ta ước đạt khoảng 6500-7000 tấn/năm.
Phần tiếp theo:"Kỹ thuật trồng và chăm sóc mắc ca tại các tỉnh Tây Bắc"
TRUNG TÂM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP CÔNG NGHỆ CAO NANOTECH
Tư vấn kỹ thuật, ứng dụng công nghệ nano trong nông nghiệp:
ThS Phạm Công Khải - Hotline: 0976 804 678 * 0835 99 85 99
Email: nanobacsuper@gmail.com